CHUYỆN VỀ CHIẾC ĂNG GÔ LỒI ĐÍT


CHUYỆN VỀ CHIẾC ĂNG GÔ LỒI ĐÍT
Nguyễn trọng Luân
Không biết các bạn đơn vị khác khi đi B được phát ăng gô vuông Trung Quốc hay loại móng trâu màu vàng của Liên Xô. Đoàn của tôi khi đi B thì võng dù to, ăng gô Liên Xô cũng to, sơn vàng. Lính gọi là ăng gô L.. trâu. Loại này nấu được nhiều. 1 kí gạo cho vào đậy nắp chặt đun đến hết bọt sùi ra là chín. cậy nắp ra bới lên nó cứ nở tung, đến khiếp cứ như nồi Thạch sanh. Nhưng nhìn những đơn vị có ăng gô vuông TQ vẫn thấy thích, nó đẹp, gọn, lại bằng hợp kim cứng . Sau này khi đánh nhau mới biết lính Nguỵ cũng rất thích loại Gô vuông này.
Gô của lính là cứu cánh cho người. Nó múc nước để tắm, nấu cơm canh, nó đựng các đồ linh tinh khi hành quân ... Lính không có gô coi như cụt tay chân trong rừng hay đi công tác lẻ. Khi mới hành quân ở trên đất bắc, gô vàng ươm trông thích mắt. Qua một lần đun nấu nó nhẻm đi nham nhở, vài lần đun nó đen tuyền, sơn bong đi hết đánh cọ nó lộ ra màu nhôm trắng lam nham. Lính mới - gô đẹp. Lính cũ - gô xấu. Lính đã qua đánh nhau nhìn gô, nhìn tăng võng là biết .
Một hôm, tôi và Lương Lợi sinh viên khoa chế tạo máy với cậu nữa tên Chung ( người Ninh Bình ) được lệnh đi công tác vượt qua sông Pô kô sang phía Miên. Công tác là : tới một cái kho của Binh trạm X nhận 75 kí cá khô cho đơn vị. Khỏi phải nói bọn tôi sướng thế nào. Đi như thế là ra phía sau , là gặp lính hậu cần, là có cái ăn và xin thuốc hút. Hăm hở, nói cười, thôi thì được dịp xả láng thích thì đi, mệt thì nghỉ chả ai chỉ huy ai. Qua sông PÔ KÔ nhìn mấy cô gái ở trần đi nương cặp vú nghênh ngang nâu sẫm mà tê tê cái sống lưng. Họ đeo gùi lên dốc đít cứ cong tớn lên, những đường cong thật hoang dại khiến mấy chú lính vấp tụt dép
Nhưng tất cả lính ở chiến trường trừ cánh 559 và lái xe ra thì đều đói. Cho nên ăng gô nào cũng méo mó đen thui. Nhưng gô mà lồi đít thì khó, mà đây là nó lồi xuống dưới, mà lồi rất sâu cơ . Chuyện thế này . Đến kho. Chao ơi, cũng là đời bộ đội sao người ta sướng thế. Họ có nhà ở lợp bằng lá trung quân( thứ lá đan vỉ ghép lại, mà rất khó cháy ). Có đài để nghe , chăn nuôi gà vịt, súng AK dùng để đi săn là chủ yếu, tăng võng làm ri đô che vách hầm. Trông ai cũng đỏ đắn, dễ nhìn. Chả bù cho bọn tôi hôi, bẩn, đói hốc đói hác
Nhìn hệ thống kho tàng mà khiếp. Sàn kho cao chừng 1 mét rồi mới đến gạo mắm muối, lương khô, bột trứng, cá khô, thuốc men. Thấy bọn tôi vêu vao đói khát họ cũng thương, cho ăn bữa cơm. Cả đời ở lính B3 tôi chưa bao giờ được ăn bữa cơm ngon đến thế. Thịt hoẵng kho, cơm gạo nương, lại có cả quả sung muối chua thay cà. Ăn rồi họ cho mỗi thằng nhúm thuốc miên, thứ thuốc lá của dân Khơ me. Lúc lấy cá khô. Họ cân đong hẳn hoi. Xong xuôi người nhà kho hỏi, có lấy cá khô đi mà ăn đường không. Ôi, còn gì bằng. Sáu con mắt long lanh không kịp gật đầu. Nhưng cụt hứng khi nghe, chỉ cho một Gô thôi. Thằng Lương Lợi bỏ gô ra chúng tôi bốc nhẹ nhàng từng nhúm cá chi chi cho vào, cho đến đâu lèn đến đấy. Bốc mãi mới đầy và khi đầy lại lèn nữa, lại cho thêm lại lèn nữa, lèn mãi cái ăng gô lồi đít xuống, lồi nữa, lồi nữa. Đến khi tay thủ kho kêu lên :
- bục mẹ nó đít gô bây giờ. Lúc ấy chúng tôi mới thôi. Thật là tiếc ... cái gô Liên Xô này bé quá. Ra về mỗi thằng đeo cái ba lô cá nhẹ tênh. Bởi mình đã có một gô đầy cá. Mặt trời xuống đằng sau lưng, sông PÔ KÔ réo gầm phía trước mặt. Đêm nay chúng tôi mắc võng bên sông. Tôi đi tìm lá bứa. Lợi và Chung nổi lửa ca cóng. Gạo xin, cá khô xin. Nấu ăn bên sông vắng. Không có tiếng pháo địch, không có thám báo. Vô tư mà ăn mà hít mùi cá khô lừng lựng thơm. Ngon và no quá. Gío thổi ù ù bên sông. Mùa khô trời trong veo lạ thường.
Hai tháng sau khi thằng Chung bị thương, tôi và Lương Lợi gặp nhau ở lớp tập huấn 7 ngày về bắn cối bộ binh. Mùa mưa Tây Nguyên thối nát cả rừng, chúng tôi mắc võng kiểu chuồng trâu bên nhau. Nửa đêm Lợi moi trong cóc ba lô nhúm thuốc rê to bằng quả quít vê cho tôi một điếu. Nó bảo, hôm ở kho quân nhu bên bờ sông Pô Kô tao xin của một thằng đồng hương, bốn tháng rồi vẫn để giành. Đêm thùm thũm đen và ì ầm pháo kích từ phía Thanh An vong về, chúng tôi hút thuốc và nói với nhau ước vọng ngày trở về trường Đại học. Nó thì thầm , tao muốn sau này có ra trường xin về quê lắp trạm bơm sông Đáy. Mày có đi chùa Hương tao cho vào vườn nhà tao mắc võng ngủ nhờ. Hai thằng cười rinh rích. Tôi hỏi, hồi ở tân binh ngoài Bắc Thái cái Liên mũi đỏ người Gia lâm tới thăm mày, ra sao rồi ? Nó lặng im. Lâu sau nó bảo, tao chắc gì trở về. Tao bảo nó rằng tao không yêu đựoc gái đại học đâu. Nghe thế nó khóc, rồi về và biệt không bao giờ thư từ nữa.
Nằm võng gần nhau thằng Lợi bảo tôi, hôm nay no quá lại nhớ cái hồi đói kém ở trường mày ạ. Tôi bảo, đói ở trường thấm gì với ở đây .Đời sinh viên là thiên đường rồi. Lợi nhỏm dậy, mày nhầm rồi hồi tao làm tổ trương ở lớp, thằng P tổ phó nó còn làm giả được phiếu cắt cơm để lấy gạo về mang ra nhà dân nấu ăn thêm đấy. Đói ở trường khác gì đói ở bộ đội. Tôi cãi, đói ở trường không chết, đói ở chiến trường mới chết. Im lặng. Tôi đang nhớ thằng P. Cái thằng ấy học giỏi nhưng kì khám bộ đội nào nó cũng thoát. Hồi lâu, thằng Lợi quay níu võng tôi nó bảo sau này mày về mày nói với P rằng hồi ấy thằng Lương Lợi biết rõ nó lấy ra được bao nhiêu gạo mì nhưng không nỡ nói vì thương nó đói đó thôi. Tôi bảo thế mày không về sao? nó im lặng. Nó ngủ từ lúc nào. Giấc ngủ của ba thằng con trai no nê với ba nụ cười ngây ngô trên võng. Đêm Tây nguyên đì đùng đưa chúng tôi mơ về miền quê trung du khốn khó của mình. Tôi về đại đội 7 còn Chung về đại đội 5 cùng Lương Lợi. Tháng 7 mùa mưa năm ấy, đại đội 5 đánh địch nống ra đồi mắt ngỗng. Trận ấy vì trinh sát bám địch không kĩ nên thất bại. Mười ba chiến sĩ hi sinh. Thằng Chung bị thấu phổi, may mà không chết. Nó may mắn được ra bắc nhận cái thẻ thương binh. Vài tháng sau Lương Lợi hi sinh trên chốt ở tây Play Cu . Tôi không biết cái gô của nó ai giữ, hay có đưa về trong ba lô kỉ vật liệt sĩ không. Nếu có, những người thân liệu có hiểu vì sao cái đít ăng gô lại lồi ra như thế không?
Viết đến đây tôi lại trào nước mắt, giọt nước mắt thật buồn nó đắng hơn là mặn .
Hoà bình năm 1975 tôi về lại trường. Cái thằng tổ phó của Lương Lợi đã tốt nghiệp và ở lại trường làm cán bộ giảng dậy. Tôi lại gọi là thầy. Bài thi kì đầu tiên từ chiến trường trở về tôi lên trả bài đúng vào nó. Hai chúng tôi như không quen biết. Nó cho tôi ba điểm ( tháng 5 điểm ) rồi lạnh lùng bước ra khỏi phòng thi. Tôi cũng không muốn níu nó lại để chuyển lời của Lương Lợi tới nó. Mãi về sau tôi vẫn giữ kín lời của Lợi.