TRẬN ĐÁNH ĐẦU TIÊN TRÊN CHỐT TIÊN TIÊU TÀ NỐT

Những ngày tháng chiến đấu gian khổ, ác liệt ở ngoài mặt trận là những ngày tháng không thể quên đối với mỗi người lính chúng ta. Để mỗi chúng ta nhớ về những ngày tháng đó, trang Lính Tây Nguyên xin giới thiệu với các bạn bài viết của bạn Phạm Công Vượng: TRẬN ĐÁNH ĐẦU TIÊN TRÊN CHỐT TIỀN TIÊU TÀ NỐT

TRẬN ĐÁNH ĐẦU TIÊN TRÊN CHỐT TIÊN TIÊU TÀ NỐT
       Phạm Công Vượng - Sư đoàn 320

Tờ mờ sáng, địch tấn công dừ dội cá bốn hướng. Đại đội 9 chúng tôi như nằm giữa cái cối giã giò. Hầm chữ A của tôi lung lay như đưa võng. Đạn B40, B4l, pháo các loại cứ nhằm đơn vị tôi mà rót tới. Tiếng hô "xung phong" của lính Khơme đỏ vang lên cả rừng sâu.
Trung đội trưởng lệnh cho tôi:
- Chú ý hướng hố bom.
Ngay lúc đó, tôi thoáng thấy bóng một tên áo đen. Tôi hét: "Địch"!
Anh đưa khẩu RPĐ cho tôi và bảo: "Quét đi". Tôi nhằm tên áo đen kéo cò. Súng nổ một dây dài thì tắc. Sau làn khói mỏng, tôi thấy tên địch đứng khựng lại rồi gục xuống.
Tôi liền trao súng cho anh sửa và chộp lấy khẩu AK của mình. Tôi quỳ ngay xuống mép cửa hầm và ngắm vào tên áo đen đang thập thò bên gốc cây. Súng nổ được mấy viên thì cũng "tịt" nốt. Trung đội trương gắt: "Những lúc không có địch thì lau chùi súng đi. Nhớ không đế cát rơi vào. Nghẹn đấy".
Tôi đang lóng ngóng kéo quy lát đế lấy vỏ đạn ra thì nghe anh hét:
- Đ….ị…c….h…Địch!. Một thằng Kìa, một thằng nữa.
Nhìn theo tay anh chỉ, tôi thấy một thằng địch đen sì đi chân đất đang lò dò xuống hố bom. Anh gạt tôi ra, bò lên miệng hầm, đứng thẳng người tung quả lựu đạn vể phía trước. Ném xong anh nhảy ngay xuống cửa hầm. Một tiếng nổ khô khốc vang lên nước, bùn đất vung lên tung tóe.
Tôi rê nòng súng về phía vừa có tiếng nổ. thì chợt thấy ba tên địch đang bò lên khỏi miệng hố bom, hướng thẳng về hầm chúng tôi…
Thấy tôi định bắn, anh ngăn lại và bảo: Đừng bắn! Lộ mục tiêu đấy.
- Dùng lựu đạn. Ném.
- Ném đ...i...đi…
Tôi loay hoay tháo lựu đạn ra khỏi thắt lưng nhưng không tài nào tháo được (vì khi hành quân tôi đã buộc chặt mỏ vịt lại). Chợt thấy trên miệng hầm có ba quả lựu đạn đặt giăng giăng, tôi chộp lấy một quả. Lượng thấy sức mình không ném tới miệng hố bom được, tôi nhảy lên khỏi miệng hầm, bò thêm một đoạn nữa và ném quả thứ hai về phía địch. Một tiếng nổ "ầm" vang lên. Chúng tôi cố gắng lắng nghe, nhưng tuyệt nhiên không hề nghe một tiếng động nào từ phía hố bom vọng lại. Anh nói với tôi: "Nó tiêu rồi". Cao hứng, tôi nâng AK nhằm phía vừa có tiếng "xung phong", bóp cò. Sau loạt súng vụng về của anh tân binh, hầm tôi hứng trọn một chầu đạn, đủ các loại. Từ bên kia hố bom súng AK bắn xối xả về phía chúng tôi. Rồi cối 60mm, M79 cấp tập vào trận địa. Đã mấy lần anh đè đầu tôi xuống để tránh đạn. Nhưng lần này thì chậm mất rồi. Tôi thấy trán mình ươn ướt…
Trung đội trưởng bảo: Cậu bị thương rồi, đưa anh băng cho. Rất may, mảnh đạn M79 chỉ bé bằng nửa hạt ngỏ, xuyên qua mũ cối thủng da đầu. Nhẹ thôi.
Bắn chán rồi, bọn địch cùng ngừng. Chỉ còn "xung phong" bằng mồm thôi. Chẳng tên nào dám bò lên nữa.
Tôi thấy mệt mỏi và rất khát nước. Từ trưa qua đến giờ tôi chỉ mới ăn nửa bát cơm và chưa uống hớp nước nào. Tôi không đói nhưng khát quá.
Sau trận tập kích ấy, trên mặt đất lá rừng bén lửa cháy rần rần. Cả trận địa như nằm trong cái chảo lửa khổng lồ. Hầm tôi chẳng khác gì bị hun, đầy khói bụi và mùi thuốc súng nồng nặc.
Không thở được, tôi xách AK chạy ra giao thông hào. Giao thông hào cũng đang cháy. Tôi chạy sang hầm anh Đệ, thấy cậu Sáng mình cởi trần đang vùi trong cát. Nó báo: "Trong người bây giờ như có kim châm khát quá"! Còn anh Đệ thỉnh thoảng bò ra mép hầm giơ súng lên bắn vu vơ mấy viên, như ngầm báo với quân địch rằng bọn tao đang sống, còn lâu mới chết!
Bọn giặc lửa đi qua, tôi trở lại hầm.
Cơn khát nước và cơn thèm thuốc lào hành hạ tôi. Tôi lục tung ba lô để tìm thuốc và diêm. Quái, sao chẳng thấy đâu! Tôi lắc hết bi đông này đến bi đông khác, chiếc nào cũng khô khốc, chẳng có giọt nước nào. Tôi bò ra cửa hầm phía trước, tìm thấy một chiếc bi đông nhựa. Cầm lên lắc lắc. Nghe tiếng lách sách. Mừng quá.
Tôi luống cuống mở nắp, tu ngay một ngụm. Nhưng vội nhổ nó ra ngay, rồi vứt bi đông vào góc hầm.
- Trời đất! Nước đái!
Tôi gắt Trung đội trưởng... Anh nhìn tôi cười, nụ cười trông đến lạ.
Anh bảo:
- Nước giải khát đặc biệt đấy!
Tôi hoảng hốt:
- Uống nước đái?
Anh nói với tôi:
- Thế cậu chưa uống... à? Chịu khát giỏi đấy. Còn anh đã uống từ chiều hôm qua rồi. Anh nói tiếp: "Phải đái vào đấy để mà uống dần, sợ đến lúc không còn nước đái nữa mà uống chú em ạ". Tôi chui tọt vào hầm chẳng đáp lời anh.
Cái lẽ thường tình, cái gì mà ta cố quên nó đi thì nó lại càng quay trở lại giày vò, tấn công ta. Tôi khát đến cháy cổ, cháy họng. Người như có lửa đốt. Trong khi ngồi gác, tôi nhìn lên cây trám nhỏ bên miệng hầm và phát hiện có một quả. Không biết quả trám ấy xanh hay chín. Nhưng tôi nghĩ nếu hái được nó, ăn chắc đỡ khát lắm. Tôi định trèo lên hái. Nhưng sợ địch phát hiện "tỉa" tôi rụng, nên thôi. Ngồi gác mà mắt không rời quả trám. Cuối cùng tôi tính liều. Lấy AK bắn vào cuống nó. Nghĩ là làm. Tôi nâng AK lên... và nổ súng. Tôi làm liền hai viên. Nghe tiếng súng, Trung đội trưởng vọt dậy ngay.
- Địch à?
Tôi trả lời:
- Không!
- Vậy sao cậu lại bắn?
Tôi im lặng. Anh mắng:
- Cậu muôn bán lắm à? Muôn chết à?
Sau này nghĩ lại việc này, tôi thấy buồn cười vô cùng. Tôi là anh tân binh, không phái là thiện xạ, lại đòi bắn một quả trám nhỏ hơn quả trứng gà cách mình những năm mét. Giá như có bắn trúng đi chăng nữa thì quả trám ấy cùng nát bét còn gì nữa mà ăn. Nhưng khát quá hóa dại...
Tôi lấy bi đông của mình ra, đái vào đó và uống. Tôi nhắm mắt nhám mũi, nhấp từng tí một, cho lưỡi ươn ướt là được. Tôi không thể chịu được cái "hương vị" đặc trưng của nó. Nước đái để trong bình tông đậy kín, lại đặt dưới nắng nóng, khi mở nắp ra là phải quay mũi đi ngay. Nó khai không tài nào chịu nổi. Nhưng muốn sống để chiến đấu thì phải uống. Uống nhiều lần thành ra nước đái nhạt dần không còn khai như lúc đầu nữa.
Vừa xử lý cơn khát nước, tôi lại phải tìm cách xử lý cơn thèm thuốc lào. Nếu cơn khát nước nó hành hạ tôi khổ sở bao nhiêu, thì cơn "khát” thuốc lào nó cũng hành hạ tôi khổ sở bấy nhiêu. Tôi muốn sang anh Đệ xin một điếu thuốc mà không có cách nào để đi. Tôi nói với Trung đội trưởng:
- Em nghe người ta nói, khi khát nước, ngậm một hạt muối cũng đỡ khát anh ạ. Anh cho em sang hầm bên xin hạt muối (thực ra là xin thuốc lào). Anh bảo:
- Cậu đi đi!
Tôi chạy sang anh Đệ, xin được một điếu thuốc lào nhưng lại không có diêm, đành tiu nghỉu quay về hầm, nhịn vậy.
Màn đêm buông xuống, tiếng súng thưa thớt dần. Mặt trận khá yên tĩnh. Một lúc sau, liên lạc chạy lên thông báo đường vẫn chưa thông, cơm nước vẫn chưa tiếp tế được. Đại đội chỉ thị tu sửa hầm hố, kiểm tra đạn dược. Ngày mai có thể địch sẽ tấn công ác liệt hơn.
Tôi hỏi liên lạc:
- Ở dưới ấy có thuốc và diêm không?
- Có. Anh liên lạc đáp.
Tôi xin Trung đội trưởng và theo liên lạc đi xuống hầm đại đội. Liên lạc cho tôi một điếu thuốc rê và bao diêm. Tôi ra ngay mép giao thông hào châm lửa hút. Anh em xung quanh mắng cho tôi một trận. Mắng cũng chẳng sợ. Thèm quá hút cái đã. Tôi chui vào một cái hầm bò, kéo một hơi rõ dài, nhưng chẳng thấy ngon lành gì cả. Miệng đắng ngắt.
Tôi phả khói mù mịt. Bỗng tiếng ho sặc sụa của một ai đó trong căn hầm vang lên. Liên lạc chạy lại kéo áo, lôi tôi ra, rỉ vào tai:
- Này, biết đây là đâu không? Hầm thương binh đấy, toàn bị sức ép cả, thở không được. Sao cậu...!
Tôi quay về hầm của mình.
Đêm mỗi lúc mỗi khuya. Ngồi gác một mình giữa đêm trăng, tôi bỗng thấy nôn nao. Nhớ nhà. Nhớ mẹ. Nhớ đêm trước ngày nhập ngũ, mẹ đã thức trắng để chuẩn bị cho con trai lên đường. Quê nghèo chẳng có gì liên hoan, mẹ gọt mấy củ khoai lang non bỏ vào một ít gạo nếp đồ lên. Khi khoai chín, mẹ bưng ra bỏ thêm một nắm lá hành tăm nữa và xéo đi xéo lại nhiều lần cho thật nhuyễn. Bát cơm khoai xéo với gạo nếp và hành tăm vừa dẻo vừa thơm như còn phảng phất đâu đây quanh trận đánh đầu tiên này. Tôi lại nhớ đến em. Ngày sắp lên đường, em có tặng cho tôi một gói quà nhỏ. Trong đó có cuốn sổ tay Khi dòng chữ rất nắn nót "Lê Thành Công". Giữa quyển sổ nhỏ có kẹp hai chiếc khăn mùi soa rất đẹp và mấv chục tờ giấy pơluya ướp nước hoa thơm phưng phức. Nhưng tôi đã gửi trả lại cho em. Không phải tôi không muốn giữ nó, không phải tôi không muôn có em trong cuộc đời của mình. Nhưng em ơi, "…thời chiến chinh mấy người đi trở lại...' Tôi không muốn em lại là một hòn Vọng Phu nữa. Đất nước mình đã có quá nhiều hòn Vọng Phu. Giờ đây, tôi vẫn tự lục vấn trái tim mình rằng tôi làm như vậy có đúng không, có làm em buồn không và có lỗi với mình không!??? Chỉ biết rằng, giá như còn chiếc khăn ấy ở đây thì tôi cũng nguôi ngoai bớt đi nỗi nhớ... Trên bầu trời, vầng trăng cuối tháng vẫn lặng lè trôi. Quả trám trên cây vẫn ngạo nghễ đung đưa trước gió. Trong làn gió, có mùi khen khét của thuốc súng, có cả hương thơm thoang thoảng của món ăn mẹ nấu, có cả mùi giấy pơluya...
Đêm thứ hai trên chốt trôi qua bình yên.
       
                Nghi Vạn, ngày 5-9-2014