CÓ MỘT LÁ THƯ KHÔNG ĐƯỢC XÉ
Nhà văn Nguyễn Trọng Luân - Sư đoàn 320
Tiểu đoàn lính sinh viên mang phiên hiệu 3002 chúng tôi vào đến chiến trường sau ba tháng mười ngày hành quân vượt Trường Sơn. Cuộc hành quân ấy đoàn tôi hao đi vài chục chiến sĩ. Vừa từ ngã ba Đông Dương về tới Kon Tum lại nhận lệnh vượt sông Sa Thầy về biên giới để lấy sắn làm lương thực. Đoàn lính đi lấy sắn toàn quân sinh viên và cán bộ giáo viên chừng trên 400 người cặm cụi hơn hai tháng. Kết thúc đợt lấy sắn ấy chúng tôi hành quân về Gia Lai để bổ sung xuống đơn vị chiến đấu.
Lại qua sông Sa Thầy đi về hướng Đông. Lại gặp lính mình quần đùi gầy ngẳng nghiu trên các nẻo đường ra phía trước. Chúng tôi đi chừng hơn mười ngày thì tới một vùng cách Plei Ku chừng dư một tầm pháo. Trập trùng là những cánh rừng đầy gai xấu hổ xen lẫn những nương cà phê của dân. Chúng tôi đói, chúng tôi sốt rét khật khừ suốt đường hành quân.
Về đến Gia Lai, tiểu đoàn tôi tách làm hai. Đại đội 4 và Đại đội 2 về Trung đoàn 64 còn Đại đội 3, Đại đội 1 về Trung đoàn 48. Vậy thế là sinh viên đại họcsư phạm, đại học Nông nghiệp với một số trường trung cấp về Trung đoàn 48; còn chúng tôi sinh viên Cơ điện, Y khoa với một số trường cao đẳng Luyện kim, cao đẳng Xây lắp 3, Địa chất... về Trung đoàn 64. Hai đại đội xếp hàng ở một sườn đồi thỉnh thoảng veo véo pháo địch bắn qua đầu. Lính cũ bảo kệ nó, lúc nào xoèn xoẹt thì nằm xuống. Nghe mà nôn nao chỉ sợ xoèn xoẹt đến ngay bây giờ. Họ xếp quân thành hàng ngang. Rồi cán bộ đi ngắm lần lượt. Thì ra, những đơn vị pháo cối, ĐKZ, thông tin, cơ quan trung đoàn được ưu tiên chọn trước rồi sau đó mới đến bộ binh chiến đấu. Tôi liếc mắt lên, cậu Ngô Thịnh K6, Tiêu và Khang K4 đều đã được chọn đi. Tôi sốt càng nặng hơn, đầu rú o o như có con nhặng xanh trong óc. Máy bay OV10 rà rà. Cán bộ nhắc che kín ngụy trang. Pháo địch vẫn thỉnh thoảng u ú bay qua, Tôi biết chúng tôi rất gần địch rồi. Chỉ còn vài chiến sĩ bị sốt rét, cuối cùng đều về Đại đội 7 Tiểu đoàn 8.
Đi theo ngưòi cán bô nhận quân, tôi và mấy đứa dìu nhau vặt vẹo chừng một giờ về đến kiềng chốt Đại đội 7. Người đón tôi là một trung đội trưởng mặc quần đùi rách. Mặt bẩn, tóc queo queo từng túm như rễ bèo tây. Hàng tháng không tắm nên tóc tai bết lại như thế. Anh ấy từ dưới hầm lên. Anh tên Ngô Văn Trăng hơn tôi hai tuổi. Nửa muốn cười nửa muốn thân thiện nhưng thấy tôi dặt dẹo quá nên nụ cười trung đội trưởng hé ra một nửa rồi tắt. Sốt à? anh ấy hỏi. Vâng em sốt vài ngày nay. Ăn được không? Dạ không muôn ăn. Phải cố mà ăn... vào hầm nằm đi.
Làm quen với chỉ huy ngần ấy câu thôi thế mà tôi cứ hình dung ra họ sẽ hỏi lý tưởng của đồng chí là gì? Đồng chí có suy nghĩ gì khi về đây?. Chả ai hỏi thế cả. Mấy anh lính cũ đưa cho tôi nắm lá chua bảo: Ăn đi, càng chua càng đỡ sốt rồi họ bò đi ra vị trí điểm chốt của họ. Tôi không ngờ rằng ngày đầu tiên về đơn vị lại là ngày tôi lên chốt mà lại lên chốt lúc còn sốt. Tôi lơ mơ như thế cho đến lúc thấy bom nổ. Tôi chồm dậy, mặt trời xuống núi rồi nghe lính cũ bảo T28 ném bom ngoài đường 19. Đêm ấy tôi nằm dưới hầm với mấy người lính cũ toàn quần đùi lâu ngày không tắm. Tôi bỗng nhớ cậu Chung, Ninh Bình nó về Đại đội 5 với cậu Lương Lợi bây giờ ở đâu? mấy đứa cùng trường ở đâu?. Đêm đầu tiên ở tiền tiêu nghe côn trùng và thi thoảng tiếng pháo bay qua rấm rứt.
Hôm sau tôi đỡ sốt. Cuộc ra mắt của tôi là ra rừng tìm lá chua và một cây chuôi non. Tôi thái đợt chuối, thái lá chua trộn với mì chính và muối thành món nộm rất ngon. Lính trên chốt đói nên háo lắm ai cũng khen. Anh Trăng bảo tớ còn nhúm thuốc Miên, cậu Luân mới vào có giấy pơluya bỏ ra để hút. cả mấy anh em sướng sáng mắt. Tôi lật cuốn sổ nhật ký lấy ra lá thư ông già gửi trước khi đi B. Tôi bảo em chỉ có lá thư này là pơluya. Anh Trăng bảo thư ai? đọc xem nào! Anh Trăng nhỏm đầu bảo anh Đấu cảnh giới trên miệng hầm rồi giục đọc đi, đọc đi. Tôi đọc, vừa đọc vừa khóc. Bố tôi là thầy giáo nên viết rất tình cảm và khúc triết, tôi đọc đến câu: ..."Luân ơi, thầy chỉ mong rồi đến một ngày con lại trở về đi học ở Trường Đại học Cơ điện mà thầy mẹ mong ước con sẽ làm kỹ sư và tiếng hát con lại vang lên vui ấm mái nhà ta...". Anh Trăng quát to lên: Thôi không đọc nữa, lá thư này không được xé, phải giữ. Mấy anh trong hầm cũng khóc. Anh Trăng lại quát: Khóc cái nỗi gì. Thư nào chả là của chung...
Đêm ấy, đầu mùa mưa mà nơi chiến trường không mưa. Ngoài cửa hầm nhìn rõ cả những vì sao long lanh. Tiếng chim đêm khuya não nuột. Các nhà văn bảo đó là tiếng chim từ quy. Tôi không biết từ quy là gì cả chỉ nghe... "trót thì bóp" đến đau lòng.
Lá thư của bố tôi không được xé. Tôi giữ mãi tới ngày giải phóng trở về. Bố tôi nghẹn ngào lau nước mắt khi thấy lại tám trang pơluya đã viết cho tôi trước ngày tôi lên đường đi vào Nam. Tờ pơluya nay chuyển ngả màu như sáp mà nét chữ của bố vẫn tươi nguyên.
Anh Trăng đi học sĩ quan cầu Lầy ( Trường Quân chính mặt trận Tây Nguyên) trên Kon Tum vào năm 1974. Tôi theo đơn vị đi đến hết cuộc chiến tranh giải phóng. Chả bao giờ gặp anh ấy nữa. Nay về già nhớ anh - một người mới học hết lớp 7 ngày xưa mà nói những câu, nghĩ những điều mà tôi tuy có học cao hơn anh cũng đâu hiểu ngay được nếu không được tôi luyện trong lửa đạn chiến trường. Tôi chỉ nhớ anh là Ngô Văn Trăng, quê Tiền Hải, Thái Bình
Anh Trăng ơi!